Mùa đông năm ấy, Quỳnh có việc đi gặp
người bà con đang sinh sống ở Thăng Long. Đường về kinh thì xa, cuốc bộ
phải mất cả tuần, mà Quỳnh vẻn vẹn có một quan tiền giắt lưng. Mới ngày
thứ ba túi đã hết nhẵn tiền, chiều xuống, trời âm u, lại điểm mưa lâm
thâm, gió bấc. Đến đầu làng kia, bụng đói cồn cào, vừa may gặp một đứa
bé mục đồng dắt trâu về xóm, Quỳnh mừng rỡ hỏi thăm lối vào nhà ấp
trưởng.
Ấp trưởng làng này vừa giàu sụ, vừa nổi
tiếng quỷ quyệt. Qua vài lời chuyện trò với người lỡ độ đường, hắn đoán
thầm khách không phải là hạng tầm thường, bèn vồn vã mời nghỉ lại và sai
gia nhân làm mâm cơm thịnh soạn để thết đãi. Nhưng mấy ngày liền, khách
cứ đi đi lại lại, rồi đến bữa nằm dài đợi cơm rượu hỏi đến chức danh
công vụ thì cứ ậm ậm ờ ờ. Chủ nhà sốt ruột, sinh nghi. Như thường lệ,
tối hôm ấy ăn xong một lúc, Quỳnh cáo lui về phòng riêng giáp với phòng
ngủ của chủ nhân. Được một chập, Quỳnh tắt đèn lên giường nằm. Biết ở
phòng bên có người vẫn thức rình mò mọi hành vi của mình, lát sau Quỳnh
vờ thức dậy rón rén thắp đèn, sau đó cẩn thận lần dưới vạt áo, lấy ra
một bọc nho nhỏ bên trong có ba gói vuông, bản bằng nhau. Khách cầm bút
long chấm chấm, mút mút đầu ngòi, hí hoái viết vào từng gói như để đánh
dấu cho khỏi nhầm lẫn (thực ra chẳng viết gì cả), miệng lẩm nhẩm đọc, cố
ý cho kẻ đang rình bên kia khe vách vừa đủ lắng nghe: Độc dược của nhà
chúa… Độc dược của bà chính cung… Độc dược của thái tử. Làm như vậy,
đoạn Quỳnh đem gói chung thành một bọc như cũ, giắt vào lưng áo. Xong
rồi tắt đèn, lên giường nằm trở lại. Khi phòng bên này bắt đầu tiếng
ngáy đều đều, thì phòng bên vọng sang tiếng động khe khẽ. Tên ấp trưởng
bí mật mở chốt cửa ra ngoài, lẻn đến chuồng ngựa… Hộc tốc lao đi trong
đêm.
Sáng hôm sau, mới hửng sáng, quan quân
từ đâu ập tới nhà ấp trưởng đông nghịt, gươm giáo tua tủa vây kín mọi
phía. Quỳnh mở mắt, chưa kịp búi tóc đã bị trói nghiền lại, quẵng lên
một chiếc xe có bốn ngựa kéo, trẩy về kinh.
Trước phủ chúa, Quỳnh bị điệu ra xét xử
với nhân chứng và vật chứng rành rành. Chúa đích thân tự tay mở tang
vật. Té ra chẳng có gì ghê gớm! Chiếc bọc được gói kỹ lưỡng trong mấy
lần mo cau, phủ ngoài bằng một vuông vải điều là chiếc bọc chứa ở bên
trong mấy gói cơm khô nhỏ, Chúa lấy mũi hài đá té nắm cơm về phía Quỳnh,
hất hàm tỏ vẻ khinh miệt:
– Ta tưởng thế nào… Tài giỏi như Trạng mà cũng ăn cả cái vứt đi này à?
– Khải chúa.
Quỳnh đáp lại không chút ngần ngừ, nhà
chúa thừa thãi mới gọi đó là của vứt đi. Còn thần dân bên dưới đâu dám
phung phí một hạt, họ gọi cơm gạo là ngọc thực.
Nói rồi, Quỳnh trân trọng nhặt lấy mấy
hạt cơm khô bỏ vào mồm nhai rào rạo. Chúa biết mình lỡ lời, đỏ bừng mặt,
lại thêm một phen mắc lỡm, tức lộn ruột. Không có cớ gì buộc tội Quỳnh,
chúa truyền nọc tên ấp trưởng ra, bắt lính đánh ba chục trượng vì tội
nói láo và báo sai.
Trước cảnh tượng ấy, Trạng chỉ biết mỉm
cười. Mặc dầu đã được tha bổng, trước khi bái biệt bề trên, Quỳnh vẫn
không quên giễu chúa bằng những câu khéo:
– Xin chúa rộng lượng tha thứ cho ấp trưởng. Và cho thần được cảm ơn hắn cùng quan quân triều đình.